Tác phẩm và phong cách nghệ thuật Thế Lữ

Là một nghệ sĩ đa tài, Thế Lữ hoạt động rộng rãi trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật, từ thơ, văn xuôi nghệ thuật (kinh dị, trinh thám, lãng mạn) cho đến báo chí, phê bình, dịch thuật và sân khấu. Trong tất cả các lĩnh vực, Thế Lữ đòi hỏi sự nghiêm túc, phong cách làm việc khoa học, cặn kẽ, tỷ mỷ, luôn muốn tìm ra sự hoàn mỹ. Đó là biểu hiện cho khát vọng của Thế Lữ: luôn săn đuổi và phụng thờ cái Đẹp đến suốt đời, như ông từng nêu tuyên ngôn trong bài thơ Cây đàn muôn điệu[82]:

Tôi chỉ là một khách tình siHam vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể.Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ,Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca

Thơ

Thế Lữ đã ra mắt khoảng hơn 50 bài thơ, chủ yếu được sáng tác trước năm 1945 và in trên hai tờ Phong hóa và Ngày nay, sau tập hợp vào hai tập thơ: Mấy vần thơ (1935) và Mấy vần thơ, tập mới (1941, gồm tập thơ cũ được bổ sung thêm một số bài mới)[83]. Tập thơ đầu, Mấy vần thơ được xem là tác phẩm tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới thời kỳ 1932-1935[25], với những bài được phổ biến rộng rãi thời kỳ đó. Bảy bài trong tập thơ đã được đưa vào hợp tuyển thơ Thi nhân Việt Nam (1942) của Hoài Thanh - Hoài Chân, gồm có Nhớ rừng, Tiếng trúc tuyệt vời, Tiếng sáo Thiên Thai, Vẻ đẹp thoáng qua, Bên sông đưa khách, Cây đàn muôn điệu và Giây phút chạnh lòng.

Chủ đềTrang bìa tập Mấy vần thơ xuất bản lần đầu tiên (1935). Tranh do Trần Bình Lộc vẽ.

Như bút danh "người khách đi qua trần thế" của mình, Thế Lữ được xem là người đầu tiên đề xướng con đường thoát ly bằng nghệ thuật, công khai tuyên bố chỉ đi tìm cái Đẹp[75]. Thơ ông thể hiện niềm say mê với cái Đẹp, đi tìm cái Đẹp ở mọi nơi[83], ở âm thanh (Tiếng trúc tuyệt vời, Tiếng sáo Thiên Thai, Tiếng gọi bên sông)[25] và cảnh sắc thiên nhiên. Thiên nhiên trong thơ Thế Lữ là một thiên nhiên của "một không gian tươi đẹp, rộng mở, rộn ràng sắc màu và thanh âm"[82], là "những bức tranh lộng lẫy và huyền ảo, có khi hùng vĩ uy nghi, có khi thơ mộng bí ẩn"[75]. Nhiều bài thơ của Thế Lữ thể hiện hình ảnh cõi tiên, với tiên nga, ngọc nữ, tiếng sáo Thiên Thai, hạc trắng hoa đào... Hoài Thanh nhận định: "Ở xứ ta từ khi có người nói chuyện tiên, nghĩa là từ khi có thi sĩ, chưa bao giờ ta thấy thế giới tiên có nhiều vẻ đẹp đến thế"; tuy nhiên ông cũng cho rằng Thế Lữ đã đi nhầm đường, bởi "thi nhân tưởng quê mình là tiên giới và quên rằng đặc sắc của người chính ở chỗ tả những vẻ đẹp của trần gian"[84]. Vũ Ngọc Phan không tán thành với Hoài Thanh, ông cho rằng cái đẹp tưởng tượng kia của Thế Lữ một ngày nào đó có thể trở thành cái đẹp có thực nơi trần thế[85]. Thơ Thế Lữ cũng thể hiện cảm hứng dồi dào với nghệ thuật và với nàng Thơ[86], mà theo Uyên Thao, nghệ thuật đã là "một phần cuộc sống", "một người bạn tâm giao" hay được ông coi như "một người yêu" của chính mình[87].

Nhiều sáng tác thơ của Thế Lữ cũng về đề tài tình yêu. Tình yêu trong thơ Thế Lữ thường thiên về thanh cao, mộng ảo, chứ không say đắm yêu đương hay buông tuồng như các bài thơ mới sau này[25]. Theo Nguyễn Nhược Pháp, Thế Lữ không hề có những niềm say mê trong tình yêu. Ông chỉ đi tìm người con gái trong mộng tưởng, vẻ đẹp của người thiếu nữ ấy chợt xuất hiện, thoảng qua và chợt biến mất "như những khoảnh khắc mê say chợt đến"[88]. Thơ Thế Lữ thiếu đi cái xúc động, cái mãnh liệt của ái ân đôi lứa như trong thơ của Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử[89]. Theo Hoàng Như Mai, tình yêu trong thơ Thế Lữ không phải để cứu cánh mà là để làm nền để vẽ nên cái Đẹp; ông đã dựng nên nhiều kiểu tình yêu "tiêu cực": mơ hồ, mộng tưởng, vô vọng, đau khổ... Dù vậy, ông không ca ngợi cái đẹp của tình yêu vô vọng đau khổ, mà tìm thấy ở đó những khoảng đẹp của niềm hy vọng, sự hy sinh...[90]

Theo Nguyễn Hoành Khung, thơ Thế Lữ thể hiện "cái tôi" muốn thoát ly với xã hội; ở một số bài thơ (Người phóng đãng, Con người vơ vẩn, Tự trào...), ông tạo dựng hình ảnh một kiểu người tài tử, bất hòa với xã hội, chán ghét cuộc sống trưởng giả, sống ngông nghênh, cô độc và kiêu hãnh[25]. Thơ Thế Lữ nói lên khát khao được sống tự do, thoát khỏi tù túng để đến với thế giới bao la hơn[89]. Bài thơ Nhớ rừng mượn lời con hổ trong vườn bách thảo, được xem là đã diễn tả tâm sự của một lớp người đang đau khổ trong cuộc sống "bị nhục nhằn tù hãm", chán ghét thực tại tầm thường giả dối, nhưng bất lực và chỉ biết chìm đắm vào dĩ vãng oai hùng, thể hiện tư tưởng giải phóng cá nhân và khát vọng tự do; bài Tiếng hát bên sông lại có hình ảnh người "khách chinh phu" dũng cảm gạt tình riêng ra đi trong lúc "non sông mờ cát bụi", thể hiện những ưu ái về thời thế và đất nước của Thế Lữ[25][75][89]. Dù muốn thoát ly, nhưng cái tôi của Thế Lữ trong Mấy vần thơ vẫn buồn, chân trời thoát ly còn chưa được mở ra hết. Sau này, trong Mấy vần thơ, tập mới (1941), Thế Lữ đã rơi vào bế tắc, ông làm thơ Trụy lạc, Ma túy, "biểu lộ tâm trạng chán chường, tuyệt vọng, buông mình trong trụy lạc để tìm quên lãng, nhưng vẫn không nguôi dằn vặt, đau khổ"[75][91][92].

Cách tân nghệ thuật

Thế Lữ được xem là người có đóng góp đáng kể vào việc hiện đại hóa thơ Việt Nam. Tuy chưa thoát hẳn khỏi phong cách diễn đạt ước lệ của thơ cũ, thơ ông đã có những cách tân táo bạo về hình thức nghệ thuật[25]. Ông đã thử nghiệm nhiều thế thơ khác nhau (trừ thơ Đường luật), bao gồm cả lục bát, song thất lục bát, năm chữ, bảy chữ, tám chữ trường thiên và cả thơ phá thể[91]. Do đặt nặng tính duy lý, nên đơn vị trong thơ Thế Lữ không phải là mỗi câu thơ đơn lẻ mà là một mảng thơ, cấu trúc theo văn phạm tiếng Pháp. Khác với thơ cũ thường hàm súc, cô đọng, thơ ông thường đề cao tính dư thừa và diễn đạt khúc chiết, logic[93][94]. Vì lý do này, Thế Lữ thường sử dụng lối "bắc cầu" thông dụng trong thơ Pháp, nhằm kết dính các câu thơ và cả đoạn thơ thành một mạch với nhau[93]. Ông cũng sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, như phép đảo ngữ, sử dụng nhiều dấu câu, liên từ..., tuy nhiên những cách tân này không góp phần làm mới nhiều đến giọng điệu hoặc thể thơ trong thơ Thế Lữ. Những thể thơ đấy Thế Lữ chưa sử dụng thuần thục, về sau được các nhà thơ mới khác khắc phục[95]. Ở thời kỳ đầu của Thơ mới, những cách tân của Thế Lữ đã mở đường cho bút pháp của nhiều nhà thơ sau này[93].

Đánh giá

Hà Minh Đức nhận xét: "Thơ Thế Lữ giàu chất lãng mạn, trữ tình. Hình ảnh thơ đẹp, giọng điệu thơ mềm mại, trau chuốt. Tuy nhiên, cảm hứng thơ ít phát triển, hình tượng thơ có ít biển hóa và trong một số trường hợp rơi vào đơn điệu"[89]. Lê Tràng Kiểu cho rằng, thơ Thế Lữ chỉ có giá trị ở những bài "có ít nhiều vẻ tiên", còn lại có nhiều bài lại thật dở: "vần điệu lủng củng, ý tứ ngớ ngẩn trẻ con, tình cảm giả dối hết sức, và câu kéo lôi thôi quá".Lê Tràng Kiều đánh giá: "thơ Thế Lữ chỉ phơn phớt ngoài tâm hồn", chứ không đi sâu vào tâm hồn người đọc như thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Vỹ, Thái Can, và kết luận rằng: "Thế Lữ là một nhà thơ kém hoàn toàn hơn hết"[96]. Uyên Thao khi bình luận, cũng cho rằng Thế Lữ chỉ hoàn toàn thành công ở một số bài như Nhớ rừng, Ý thơ, Tiếng sáo Thiên Thai, Giây phút chạnh lòng, còn lại thì chỉ thành công ở từng tiếng, từng âm, trong mỗi đoạn, mỗi câu[97].

Dù như thế nào, ảnh hưởng và vai trò tiên phong của Thế Lữ đối với thơ mới vẫn được công nhận[75][89][98]. Vũ Ngọc Phan ghi nhận: "Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là những người làm cho người ta chú ý đến thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin cậy ở tương lai của thơ mới"[85]. Và Hoài Thanh hoa mỹ hơn: "Độ ấy thơ mới vừa ra đời, Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam... Thế Lữ không bàn về thơ mới, không bênh vực thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết, Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ"[84].

Truyện

Bên cạnh thơ, Thế Lữ là tác giả của gần 40 truyện, gồm sáu truyện vừa, còn lại là truyện ngắn[99]. Truyện của ông, theo cách xếp quen thuộc được chia làm 3 thể loại chính: truyện kinh dị (Vàng và máu, Bên đường Thiên Lôi), truyện trinh thám (Lê Phong và Mai Hương, Gói thuốc lá, Đòn hẹn, Tay đại bợm...) và truyện lãng mạn núi rừng (Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh). Ở thể loại huyền bí, huyền tưởng và trinh thám, các sáng tác của Thế Lữ chịu ảnh hưởng từ văn chương duy lý phương Tây nói chung và các tác phẩm của Edgar Allan Poe nói riêng, có truyện (Trại Bồ Tùng Linh) lại viết theo phong cách của Bồ Tùng Linh với Liêu trai chí dị[100]. Ở nhiều tác phẩm, Thế Lữ vừa phủ lên nó sự rùng rợn, huyền bí, lại vừa lý luận để giải thích những hiện tượng trên một cách khoa học. Điều này cũng phù hợp với quan niệm của Thế Lữ và nhóm Tự Lực văn đoàn thời đấy, tức đề cao khoa học, chống sự thần bí hoang đường, "đem phương pháp khoa học Thái Tây áp dụng vào văn chương Việt Nam"[91]. Ông cũng đưa yếu tố lãng mạn cùng chất thơ vào truyện, có nhiều trang văn khắc họa tài hoa cảnh trí thiên nhiên, đặc biệt có sự phân tích tâm lý nhân vật một cách tinh tế[101]. Nhiều truyện được ông viết kỹ lưỡng, lối hành văn của ông có nhiều ưu điểm, như theo Phạm Thế Ngũ: "Trong tất cả các nhà văn Tự Lực văn đoàn, Thế Lữ có lẽ là người có câu văn tinh vi rèn giũa hơn cả... Câu văn của ông có tính cách phân tích, cú pháp chặt chẽ, mạch nghĩa sáng tỏ, chữ dùng chính xác, nhiều khi không ghét sự cao kỳ, sự kiểu cách, song nhất định không chấp nhận sự trùng điệp, sự nhàm thường"[91].

Tập truyện đầu tiên của Thế Lữ, Vàng và máu (1934) là tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất của ông ở thể loại kinh dị, đã trở thành một hiện tượng mới lạ ngay từ khi ra đời và để lại dư âm đến nhiều năm sau[102]. Với tác phẩm này, Phan Trọng Thưởng đánh giá Thế Lữ là "tác giả đạt đến đỉnh cao nghệ thuật" của loại truyện ly kỳ rùng rợn[103], Lê Huy Oanh gọi đây là "một trong những tác phẩm thuộc loại truyện rùng rợn có giá trị lớn trong kho tàng tiểu thuyết Việt Nam"[104]. Gồm một truyện vừa (Vàng và máu) và ba truyện ngắn (Một đêm trăng, Con châu chấu tre, Ma xuống thang gác), trong đó đặc sắc nhất là Vàng và máu và Một đêm trăng, tập truyện này được đánh giá cao ở lối kể chuyện hấp dẫn, li kỳ, gây tò mò và xúc động cho độc giả[104], xây dựng giản dị, có kết giải, lối văn gọn gàng, thanh thoát, trí tưởng tượng và khiếu phân tích phong phú, những đoạn tả cảnh vừa tỷ mỉ lại rùng rợn mà có thi vị[91].

Ở thể loại trinh thám, Thế Lữ cùng Phạm Cao Củng được xem là hai tác gia mở đầu truyện trinh thám ở Việt Nam[105]. Vũ Ngọc Phan đánh giá ở thể loại này Thế Lữ chưa thành công[85]. Truyện của ông ít mang màu sắc Việt Nam[93], như theo Phạm Thế Ngũ, truyện trinh thám của Thế Lữ có nhược điểm: "Tiểu thuyết của ông cao quá, lấy làm truyện những điều lạ quá, làm nhân vật những người hiếm quá... Cao quá cả ở cách viết săn sóc chải chuốt, cách lập luận khoa học tỷ mỷ, vì vậy không phổ biến trong độc giả trung bình..."[91]. Các tác phẩm trinh thám của ông có nhiều tình tiết phi lý, không gian và thời gian truyện ngắn và hẹp một cách khiên cưỡng[106]. Ở thể loại lãng mạn, đáng kể là tập truyện Gió trăng ngàn (1941), gồm tám truyện ngắn, được xem như những "bài thơ bằng văn xuôi"[107], tất cả đều kể về những mối tình đẹp và thơ mộng giữa những chàng trai miền xuôi và những cô gái vùng cao, trong bối cảnh núi rừng thiên nhiên miền sơn cước[91].

Sân khấu

Trong sân khấu, Thế Lữ được biết đến ở cả hai vai trò: diễn viên và đạo diễn. Ông là đạo diễn và đồng đạo diễn của gần 50 vở và đã đóng khoảng hai mươi sáu vai diễn khác nhau[108]. Thời kỳ đầu, ông thường say mê tìm đọc các cuốn sách về sân khấu, đặc biệt là sân khấu Pháp, trong đó có Nghệ thuật đóng kịch của Sarah Bernhardt, Những cổ động viên sân khấu của Louis Jouvet...[109] Ông ưa thích sự bạo liệt, hình thức trau chuốt, vẻ đẹp hoàn hảo, lộng lẫy của sân khấu cổ điển Pháp, đặc biệt luôn yêu thích và học hỏi lối diễn của nữ diễn viên Pháp Sarah Bernhardt. Dù vậy, cho đến trước Cách mạng tháng 8, ông vẫn chưa hề đọc một cuốn sách nước ngoài nào về công việc đạo diễn[30]. Thế Lữ đi theo lối diễn hiện thực (réaliste) chứ không theo lối ước lệ (symbolique) như sân khấu tuồng, chèo truyền thống[110].

Khi chưa được tiếp xúc trực tiếp với phương pháp hiện thực tâm lý của Stanislavsky, nhìn chung phong cách và quan niệm diễn xuất của Thế Lữ đã nằm trong những nguyên lý cơ bản của phương pháp này[50]. Ông đặt ra yêu cầu đối với người diễn viên là phải diễn xuất cho chân thực: "Phải căn cứ vào sự thực hoàn toàn, cố chép cho giống với sự thực một cách chi li. Có như thế mới làm khán giả tin được, vững chắc trên cái nền tả chân, rồi sau mới tô điểm, thêm bớt, mà có lẽ sẽ bớt nhiều hơn thêm"[109]. Dù vậy, Thế Lữ không chủ trương sao chép đúng y nguyên sự thực, mà điều quan trọng là phải diễn tả được cái thần bên trong, phải lột tả được nội tâm nhân vật một cách sắc sảo chứ không phải là sự vụn vặt bên ngoài. Vai diễn ông Ký Cóp, một trong những vai thành công nhất của Thế Lữ, đã gây hiệu quả sân khấu sâu đậm với người xem qua những lớp diễn kỹ càng, tỉ mỉ, mang tính tìm tòi mà ông thể hiện[111][112]. Theo nhà nghiên cứu Tất Thắng: "Thế Lữ đã tạo ra một lối diễn kỹ về động tác, cử chỉ ngoại hình, và bước đầu có sự phân tích hợp lý trong sự phát triển về tâm lý nhân vật. Một thời người ta đã gọi đó là diễn kịch kiểu Thế Lữ"[113].

Là một đạo diễn, bên cạnh diễn xuất, ông còn quan tâm đặc biệt đến phần đài từ của diễn viên, đòi hỏi người diễn viên phải thốt lời sao cho "tròn vành rõ chữ", mạch lạc, rành rẽ, thể hiện sự hiểu biết thấu đáo về ý nghĩa của từng câu chữ[114][115]. Ông cũng chú trọng nhiều đến hóa trang, phục trang, ánh sáng, mỹ thuật và cách bài trí sân khấu, để tìm ra hiệu quả tối đa ở mỗi vở diễn.

Về sáng tác, Thế Lữ là tác giả của hơn 20 kịch bản kịch nói, hai vở kịch thơ (Tục lụy và Dương Quý Phi), đồng tác giả vở chèo Tấm Điền và ca kịch bài chòi Tiếng sấm Tây Nguyên (viết cùng Thanh Nhã)[108]. Phần lớn tác phẩm kịch của ông được viết nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ phục vụ cách mạng và kháng chiến hoặc chỉ khi tập thể của ông cần[51]. Trong một bài phỏng vấn năm 1962, ông tự nhận mình "chỉ là người đạo diễn và diễn kịch"[116] và trong bài báo năm 1971, ông nói rằng mình đang thai nghén viết một "vở kịch đầu tiên"[117].

Thế Lữ mong muốn tìm ra một phong cách riêng cho sân khấu Việt Nam mà không rập khuôn theo lối kịch châu Âu[118][119]. Thế Lữ cũng chủ trương đem chất thơ mộng, huyền ảo vào sân khấu, vì thế những vở kịch nói của ông không chỉ là nói mà còn xem lẫn nhiều kịch câm (như diễn xuất của Thế Lữ trong Ông Ký Cóp, Người mù, Tin chiến thắng Nghĩa Lộ...). Ông cũng thử nghiệm cải tiến lối ngâm thơ trong kịch thơ Dương Quý Phi (1942, gồm hai vở Trầm hương đình và Mã Ngôi Pha), chủ trương phát huy tính nhạc điệu, tính hàm súc của lời thơ trong cách nói thường chứ không ngân nga như lối diễn trước đó[120][121]. Những sáng tạo trên, cũng như những sáng tác chèo và ca kịch sau này, được xem như những thể nghiệm của Thế Lữ nhằm mục đích sáng tạo ra một loại kịch nói mang tính dân tộc, một "cách phô diễn Việt Nam" cho sân khấu[51].